Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Tự bảo vệ sức thuốc bảo vệ thực vật khỏe khỏi thuốc bảo vệ thực vật.

CHỨNG NHẬN ISO 22000  Việc xây dựng Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật sẽ bổ sung các khái niệm về thuốc bảo vệ thực vật cho phù hợp và đúng với quốc tế


I. ,Chứng nhận hợp chuẩn cửa sổ và cửa đi bằng nhựa cứng uPVC - 0903587699 Kết quả là có hai mẫu rau có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép


Truy xuất nguồn gốc rau củ để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.Ảnh: TM. Sẽ tăng cường các biện pháp quản lý thuốc BVTV. Theo đó, Bộ trưởng Cao Đức Phát giao Thanh tra bộ chủ trì, phối hợp với Cục BVTV, Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm thủy sản và các địa phương tiếp tục thanh tra toàn diện, trên diện rộng về quản lý thuốc BVTV tập trung vào các cơ sở nhóm C, xử lý nghiêm các vi phạm theo thẩm quyền, báo cáo Bộ trưởng trước ngày 30.12.2014. Bộ trưởng giao Cục BVTV đề xuất và chỉ đạo hệ thống chuyên ngành phối hợp với các cơ quan công an, quản lý thị trường thực hiện các biện pháp nghiệp vụ nắm chắc tình hình nguồn hàng, đầu nậu, mạng lưới và đấu tranh quyết liệt có hiệu quả với tình trạng buôn lậu thuốc BVTV qua biên giới và tiêu thụ trong nước, báo cáo Bộ trưởng trước ngày 30.12. Về việc thực hiện các quy định về khảo, kiểm nghiệm thuốc BVTV, Bộ trưởng giao Cục BVTV tiếp tục kiểm tra, chấn chỉnh, đồng thời đề xuất điều chỉnh các quy định hiện hành để quản lý chặt chẽ, có hiệu quả hơn, báo cáo Bộ trưởng trước ngày 30.9. Trước đó, tại phiên họp đầu tiên của Ban Chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả Ban chỉ đạo 389 – thay thế Ban chỉ đạo 127 trước đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân thuoc bao ve thuc vat Phúc, Trưởng ban đã yêu cầu Bộ NNPTNT; Bộ Công an cùng các địa phương tăng cường các giải pháp quản lý thuốc BVTV nhập lậu, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ NNPTNT chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời các văn bản pháp luật về quản lý thuốc BVTV, phân bón; phối hợp với Bộ Tài chính đề xuất cơ chế hỗ trợ kinh phí cho các địa phương xây dựng kho lưu chứa thuốc BVTV bị thu giữ, kinh phí tiêu hủy thuốc BVTV giả; hoàn thành trong quý III năm 2014..


Thứ Tư,  24/9/2014, 23:00 GMT+7 Đăng ký |  Đăng nhập Đặt báo in. Qua đó, Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Hà Nội đã tiến hành lấy 8 mẫu cua đồng tại 8 chợ trên địa bàn TP Hà Nội để xét nghiệm. Các mẫu cua đồng được gửi về Viện Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm Quốc gia để xét nghiệm dư lượng thuốc trừ sâu, với kết quả kiểm nghiệm cho thấy không phát hiện dư lượng thuốc trừ sâu trong 8 mẫu cua đồng trên. Do đó, Cục An toàn thực phẩm khuyến cáo, người dân yên tâm khi sử dụng cua đồng.Liên quan tới thông tin cho rằng có đỉa trong mì tôm khiến nhiều người tiêu dùng hoang mang, Cục An toàn thực phẩm nêu rõ, về mặt lý thuyết, sản phẩm mì tôm có đỉa là hoàn toàn không hợp lý. Bởi lẽ mì tôm được sản xuất theo quy trình công nghệ khép kín với những yêu cầu nghiêm ngặt về đảm bảo an toàn thực phẩm. NG. KHÁNH. Thu gom rác thải nông nghiệp tại tỉnh An Giang. Ảnh: Báo An thuoc bao ve thuc vat Giang. Sơ chế rau an toàn trước khi bán ra thị trường tại xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, Hà Nội.. ,Công bố hợp chuẩn thép tấm 0903 587 699
 Nín thở chờ biểu thuế ôtô. Theo cục BVTV, có khoảng 4.000 tên thương mại hiện nằm trong danh mục thuốc BVTV của Việt Nam. Việc có quá nhiều tên thương mại thuốc BTV trong danh mục khiến cho nông dân, kể cả cán bộ kỹ thuật cũng rất khó để lựa chọn. Do vậy, cần loại bỏ khoảng 30-40% các loại thuốc đang cho phép trong danh mục để giám sát, quản lý tốt hơn”, ông Tùng đề nghị. Việt Nam có khoảng trên 1.200 hoạt chất để chế tạo thuốc BVTV, trong khi các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia chỉ khoảng 400-600 loại hoạt chất. Tuy nhiên, có những hoạt chất có đến hàng trăm tên thương mại, giống như ma trận dễ đánh lừa người dân, chẳng hạn như hoạt chất Abamectin có 188 tên thương mại. Tạm giữ 3 xe khách giường nằm Thành Bưởi. Đây là lần thứ hai CropLife tổ chức sự kiện này vơí mục tiêu nâng cao nhận thức cho bà con nông dân về sử dụng đúng và hiêụ quả thuoc bao ve thuc vat các chất bảo vệ thực vật, đảm bảo an toàn cho ngươì sử dụng, nông sản và môi trường. TRẦN MẠNH .


II. ThienNhien


.Tên của bạn: Bạn phải nhập tên Email: Bạn phải nhập Email Email không hợp lệ Tiêu đề: Bạn phải nhập tiêu đề Tắt bộ gõ Tự động Telex VNI VIQR. Đó là các kho thuốc tại HTX nông nghiệp Hòa Kiến 3 TP.Tuy Hòa với một nhà kho xuống cấp, nhiều can thuốc, phuy thuốc lâu ngày bị ôxy hóa làm vỡ ngấm xuống đất; kho thuốc của Cty VTTH Phú Yên với 433kg Falizan và 430kg thuốc khai hoang tồn đọng tại thôn Phong Niên, xã Hòa Thắng huyện Phú Hòa; kho thuốc tại Nông trường Sơn Thành cũ thuộc huyện Tây Hòa, với khối lượng 78,8kg Falizan chôn trực tiếp xuống đất. Vào mùa nắng, kho thuốc tại HTX Hòa Kiến 3 bốc hơi nồng nặc, lan tỏa cả một vùng, trong khi trường tiểu học, trường mẫu giáo và nhà dân thôn Ngọc Phong chỉ cách kho thuốc này khoảng 10 - 15m. Từ năm 2008, Chi cục BVTV đã báo cáo UBND tỉnh và đề nghị các ngành chức năng tiêu hủy các kho thuốc trên, nhưng không hiểu sao đến nay vẫn chưa được xử thuoc bao ve thuc vat lý! Lưu Phong. Một chuyên gia thuộc Cục Bảo vệ Thực vật nói rằng, chất này nếu đi vào cơ thể người, tùy mức độ có thể gây ngộ độc cấp tính như nôn, chóng mặt… cũng như tùy hàm lượng hấp thụ vào cơ thể mà có thể gây độc tố về lâu dài khác nhau. Theo ông Trịnh Công Toản, Chánh Thanh tra của Cục Bảo vệ Thực vật, đây là mẫu rau cải xanh được lấy từ Hợp tác xã sản xuất, tiêu thụ và chế biến sản phẩm nông sản an toàn xã Vân Nội Đông Anh, Hà Nội. Mức dư lượng phát hiện trong mẫu cải nói trên là 0,25 mg/kg trong khi mức quy định tối đa cho phép là 0,02 mg/kg [tương đương trên 10 lần - pv]. Trong buổi làm việc với Chi Cục Bảo vệ Thực vật Hà Nội chiều qua 2/2, Cục Bảo vệ Thực vật đã yêu cầu Chi cục xem xét lại toàn bộ quy trình sản xuất rau an toàn tại Vân Nội, nếu cần sẽ đưa ra biện pháp rút giấy phép khu vực trồng rau an toàn tại đây. Vùng rau an toàn Vân Nội là đơn vị thường xuyên cung cấp rau sạch” cho một số siêu thị, cửa hàng rau an toàn tại Hà Nội./. Trung Hiền Vietnam+. Tạm giữ 3 xe khách giường nằm Thành Bưởi .


Một người dân ở thị trấn Cao Lộc, thường xuyên bán thuốc BVTV tại các phiên chợ quê tại các huyện Cao Lộc, Lộc Bình Lạng Sơn, cho biết: "Tôi sang chợ bên kia biên giới mua các loại thuốc này; khi mua thì cũng chỉ được giới thiệu loại nào để diệt chuột, loại nào để trừ sâu, loại nào diệt cỏ… cứ thế mang về bán. Khi người mua cần sử dụng vào việc gì thì tôi bán cho loại đấy. Người ta sử dụng có hiệu quả rồi thì lần sau lại đến mua tiếp". Khi được hỏi về nhãn mác, cũng như cách sử dụng của các loại thuốc này, chị Hoàng Thị Phương, ở xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, người vừa mua liền mấy loại thuốc cho biết: "Tất cả các loại thuốc này trên bao bì đều là chữ Trung Quốc, chúng tôi cũng chẳng đọc được, chỉ nhìn hình vẽ trên đấy và qua sự hướng dẫn của người bán là mua về dùng. Như loại có hình con chuột là để diệt chuột; loại này có hình con sâu, bọ là để dùng trừ sâu, còn loại có hình hoa quả là để phun kích thích cho rau, củ, quả mau lớn… Gia đình tôi cũng như bà con ở đây thường xuyên dùng các loại thuốc này vì rất hiệu quả". Ông Hoàng Văn Đức, cán bộ Trung tâm quản lý cửa khẩu Chi Ma cho biết: Thuốc BVTV nhập lậu chủ yếu là do người dân sinh sống ở khu vực biên giới đi chợ bên kia mang về; số lượng ít, nhỏ lẻ và thường đi theo đường mòn, lối tắt nên rất khó phát hiện. Tất cả các loại thuốc này đều có nhãn mác bằng tiếng nước ngoài, không có hướng dẫn bằng tiếng Việt. Người bán cũng chỉ biết nhìn vào hình vẽ trên bao bì mà suy luận đó là loại thuốc gì. Có nhiều loại thuốc cực độc như loại diệt chuột bằng nước, bằng bột, bằng giấy dán tẩm thuốc... Cùng với đó là việc sử dụng không đúng cách, đúng liều lượng, có thể sẽ gây độc hại không nhỏ tới sức khỏe của người dân và môi trường xung quanh. Theo Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh Lạng Sơn, hiện nay tại tỉnh Lạng Sơn còn tồn đọng trên 12 tấn thuốc BVTV ngoài danh mục, nhiều loại không nhãn mác, do các lực lượng chống buôn lậu bắt giữ từ nhiều năm nay vẫn nằm rải rác trong các kho của các lực lượng chức năng bởi chưa được sự hướng dẫn và cấp kinh phí để xử lý, tiêu hủy. Hiện tại số thuốc BVTV này đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại khu vực cơ quan và khu dân cư gần kho chứa thuốc làm ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường và sức khỏe của cán bộ và người dân sinh sống xung quanh.Thái Thuần. Một số sản phẩm từ sò lông, sò điệp có ... Hiện hầu hết các loại thuốc BVTV sử dụng ở Việt Nam đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Hàng năm, Việt Nam nhập khẩu trên 70.000 tấn thành phẩm với trị giá 210 – 500 triệu USD, trong đó, trên 90% thuốc được nhập khẩu từ Trung Quốc. Theo Cục BVTV, trước năm 2003, lượng thuốc BVTV nhập khẩu vào Việt Nam không bao giờ vượt quá con số 40.000 tấn/năm.Tuy nhiên, từ năm 2004 đến nay lượng nhập đã tăng gấp đôi, cá biệt như năm 2008, lượng nhập khẩu lên tới hơn 10.000 tấn. Trong số này, theo đánh giá thì chỉ có khoảng 2.000 tấn là do các doanh nghiệp kinh doanh thuốc BVTV nhập nguyên liệu về, sau đó sang chai, đóng gói và xuất khẩu sang nước thứ 3, còn lại đều đổ hết xuống đồng ruộng nước ta.Ông Nguyễn Xuân Hồng - Cục trưởng Cục BVTV cho biết, để quản lý hiệu quả hóa chất BVTV, Cục đã thường xuyên phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành các đợt thanh tra, kiểm tra chất lượng tại các cửa hàng, công ty buôn bán thuốc BVTV trên địa bàn. Tuy nhiên, theo ông Hồng, thực tế, việc quản lý hóa chất tại Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn do những bất cập trong việc phân chia vai trò, trách nhiệm, kho chứa, kinh phí lưu trữ cũng như tiêu hủy.Một vấn đề nữa, theo Cục BVTV, để cạnh tranh thị phần, các nhà sản xuất đã sẵn sàng nhập nguyên liệu từ những nước có giá thành thấp, chất lượng kém. Giá thành giữa các sản phẩm do đó chênh lệch nhau rất lớn. Sau khi trải qua các khâu trung gian phân phối, sản phẩm đến tay người nông dân đã không được kiểm định về chất lượng, còn giá thì cao.Để giải quyết tất cả những vấn đề trên, Cục BVTV và một số cơ quan chức năng cho rằng, muốn quản lý tốt hóa chất BVTV, nhất thiết phải có sự vào cuộc, tham gia của 6 bộ là: NNPTNT, Công Thương, Tài nguyên - Môi trường, Tài chính, Công an và Quốc phòng, theo nguyên tắc: Đảm bảo, tuân thủ các quy định hiện hành về thẩm quyền của các bên; bảo đảm nguyên tắc có một đầu mối chịu trách nhiệm chính và có các cơ quan phối hợp; đảm bảo sự thống nhất, kịp thời hỗ trợ nhau.Các cơ quan quản lý nhà nước từ T.Ư đến địa phương cần siết chặt các cơ chế phối hợp giữa 6 bên liên quan trong công tác quản lý hóa chất BVTV nhằm giảm thiểu các hành vi vi phạm nhập lậu, sử dụng thuốc nhập lậu.... Từ đó, hạn chế những tiêu cực do hóa chất không rõ nguồn gốc gây ra” - ông Hồng nêu quan điểm.Anh Vân. Sử dụng thuốc BVTV không đúng phương pháp và liều lượng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người Sử dụng đúng, thuốc BVTV giúp đẩy lùi dịch hại, giữ năng suất cây trồng cao và ổn định. Nhưng trong quá trình lưu thông và sử dụng thuốc BVTV, nếu sử dụng không đúng và thiếu biện pháp phòng ngừa, thuốc sẽ gây những tác hại không nhỏ cho môi sinh và môi trường. Một thực tế đang tồn tại gây khó khăn cho việc quản lý thuốc BVTV ở nước ta là có quá nhiều tên thương mại của các loại thuốc trong khi nhiều loại không còn được sử dụng. Theo ông Trương Quốc Tùng, Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam hiện thuoc bao ve thuc vat nay, trong danh mục của chúng ta có hơn 1.200 hoạt chất để chế tạo thuốc BVTV trong khi các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia chỉ có từ 400 - 600 hoạt chất. Trong đó, có những hoạt chất có hàng trăm tên thương mại, giống như "ma trận” đánh lừa người dân. Chẳng hạn, hoạt chất Abamectin có tới 188 tên thương mại. Cùng với đó, trong cơ cấu thuốc BVTV, các loại thuốc có độ an toàn còn chiếm tỷ lệ thấp. Cụ thể, thuốc BVTV sinh học chỉ chiếm dưới 20%, loại thuốc có thời gian cách li dưới 7 ngày cũng chỉ chiếm khoảng 13. Trong những thập niên cuối của Thế kỷ 20 và những năm đầu của Thế kỷ 21, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trí tuệ con người làm cho nền sản xuất tăng nhanh, nhưng môi trường đất, nước và không khí bị ô nhiễm nặng. Ở Việt Nam vào những năm cuối của thập kỷ 80, số lượng số lượng thuốc BVTV sử dụng là 10.000 tấn/ năm, nhưng bước sang những năm của thập kỷ 90, số lượng thuốc BVTV đã tăng lên gấp đôi 21.400tấn/năm vào năm 1992, thậm trí tăng gấp ba 30.000 tấn/năm vào năm 1995 và diện tích đất canh tác có sử dụng thuốc BVTV đã tăng lên 80-90%. Trong số đó, thuốc trừ sâu chiếm tỷ lệ 68,33-82,20% trong tổng số lượng thuốc BVTV đã sử dụng. Thuốc trừ sâu cỏ chiếm tỷ lệ 3,30 - 11,90%. Các nhóm thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và các thuốc khác hiện được sử dụng với số lượng ngày càng tăng. Hiện nay đã có nhiều những tiến bộ trong công tác quản lý cung ứng, sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt là từ khi Luật Bảo vệ môi trường thực thi vào tháng 4-1994. Các nhà sản xuất hóa chất BVTV đã đưa ra thị trường các sản phẩm đa dạng về chủng loại mẫu mã và được bao gói pha chế sẵn rất thuận lợi cho người sử dụng. Theo đó, hiện có 900 loại hóa chất BVTV thương mại và hơn 300 hoạt chất BVTV phân theo hoạt tính lưu hành trên thị trường Việt Nam với mạng lưới cung ứng đa dạng. Mặt khác, hiểu biết của người dân về sử dụng thuốc BVTV cũng tăng lên đáng kể. Từ đó đặt ra trách nhiệm của các nhà quản lý, sản xuất và cung ứng. Tuy nhiên, ở một số vùng sâu, vùng xa người dân vẫn chưa hiểu biết hết về sự nguy hiểm của thuốc BVTV, vẫn sử dụng thuốc và phân bón hóa học, các hoạt chất quá mức cần thiết và không đúng quy cách nên đất canh tác ngày càng xấu đi, dư lượng các phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, diệt cỏ ngấm xuống tầng nước ngầm làm ô nhiễm các nguồn nước. Những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu, các dự án với dây chuyền công nghệ thiết bị hiện đại được triển khai để xử lý chúng và đã góp phần không nhỏ trong công tác bảo vệ môi trường, tuy nhiên do tính chất phức tạp của việc quản lý, xử lý các loại hóa chất này đã và đang trở thành thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trước những tác hại tiềm tàng của các loại thuốc BVTV với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đồng thời để đáp ứng những yêu cầu về bảo vệ môi trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 184/2006/QĐ-TTg ngày 10 - 8- 2006 phê duyệt Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Có thể nói, chúng ta đã có một hệ thống các quy định về quản lý thuốc BVTV. Tuy nhiên, trước thực tế đáng báo động do tác hại của thuốc BVTV gây ra, đã đến lúc cần xây dựng các quy định đồng bộ về quản lý tác hại của thuốc BVTV tới môi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi. Nguyễn Sáng - Thanh Tùng .. Hợp chuẩn sản phẩm Hiện có một lượng lớn thuốc BVTV ngoài danh mục sử dụng tại nhiều vùng sản xuất. Ảnh minh họa. Tạm giữ 3 xe khách giường nằm Thành Bưởi. Bên cạnh đó, ngày hội cũng tiến hành làm sạch môi trường bằng cách thu gom vỏ chai thuốc trừ sâu trên đồng ruộng. Theo ông Lê Hữu Lãnh, tiểu thương chuyên buôn hàng nông sản Trung Quốc và cả Đà Lạt về TP.HCM bán sỉ, có sự khác biệt rất lớn giữa mẫu mã bên ngoài của hàng nông sản Trung Quốc và nông sản sản xuất trong nước nói riêng, đặc biệt ở những mặt hàng thể hiện rõ rệt như gừng, tỏi, cà rốt... Theo đó, gừng Trung Quốc thường có hai màu vỏ là màu vàng và màu vàng pha trắng nhợt. Các củ gừng Trung Quốc có lớp vỏ nhẵn nhụi, căng mọng, củ to, đều, ít nốt sần sùi, được vệ sinh rất sạch sẽ. So với gừng trong nước, củ gừng Trung Quốc thường to gấp rưỡi, có khi gấp đôi. Gừng trồng trong nước lớp vỏ xỉn màu hơn, rễ và nốt sần sùi nhiều hơn. Gừng Trung Quốc đẹp vượt trội gừng VN nhưng mùi thơm thì gừng VN lại ăn đứt” hàng Trung Quốc. Tương tự, tỏi Trung Quốc có củ rất to, các tép tỏi cũng to, vỏ dễ bóc. Trong khi đó tỏi VN củ nhỏ hơn, các tép tỏi nhỏ và lớp vỏ khó bóc hơn. Tỏi VN dậy mùi hơn hẳn tỏi Trung Quốc ngay cả khi chưa được đưa vào chế biến. Cà rốt Trung Quốc Thuoc bao ve thuc vat cũng là mặt hàng rất dễ phân biệt bởi gần như toàn bộ đều có màu cam sặc sỡ hơn, vỏ mọng hơn và to đều, đẹp hơn cà rốt Đà Lạt. Ngoài ra, hàng Trung Quốc được nhập về VN hiện nay đa số đều xếp trong các xe container lạnh để đảm bảo độ tươi của sản phẩm. Hàng đông lạnh nên được cắt lá, rễ rất kỹ càng, khác hoàn toàn với nông sản trong nước vẫn còn để sót lại nhiều lá, rễ, cuống... Tuy nhiên, để chắc chắn không bị mua nhầm hàng Trung Quốc, các bà nội trợ nên mua ở những nơi có niêm yết xuất xứ trước mỗi khay hàng cụ thể. Tại các siêu thị, cửa hàng chuyên về nông sản, thực phẩm tươi sống... Nhà phân phối thường đề rõ vào bảng giá tên sản phẩm đi kèm xuất xứ. B.HOÀN .


III. Ảnh minh họa Đây là một trong những nội dung quy định về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại Dự thảo Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật


Dự thảo giao cụ thể cho chính quyền địa phương quy định địa điểm thu gom, tổ chức thu gom và tiêu hủy bao gói thuốc sau khi sử dụng. Ảnh: www.hoidap.vinhphucdost.gov.vn. Dấu hiệu bất thường của một con nợ”… khủng ở đất Mũi. Đây là lần thứ hai CropLife tổ chức sự kiện này vơí mục tiêu nâng cao nhận thức cho bà con nông dân về sử dụng đúng và hiêụ quả các chất bảo vệ thực vật, đảm bảo an toàn cho thuoc bao ve thuc vat ngươì sử dụng, nông sản và môi trường. TRẦN MẠNH. Lập công ty ma, thuê con nghiện, thợ sửa xe làm giám đốc .. Đề nghị truy tố một giám đốc DN cùng hai thuộc cấp 11:29, 28/07/2014 Chiều 24/7, Cơ quan CSĐT Công an huyện Trần Văn Thời Cà Mau cho biết vừa đề nghị VKSND huyện truy tố Nguyễn Cẩm Nhung 41 tuổi - Giám đốc Công ty TNHH Hưng Điền Cà Mau cùng hai thuộc cấp là Nguyễn Thúy Sen chị ruột Nhung, 48 tuổi, kế toán trưởng và Nguyễn Văn Tuấn 34 tuổi, nhân viên về hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Ảnh minh họa. Nguồn: Internet Được biết, trong quý I-2012 vừa qua, Bộ NN-PTNT đã tiến hành 70 đợt thanh tra, kiểm tra hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV tại 1.670 cơ sở, trong đó có 111 trường hợp vi phạm các hành vi buôn bán thuốc không đủ điều kiện, thuốc vi phạm nhãn mác, thuốc quá hạn sử dụng. Lực lượng chức năng của Bộ cũng đã phát hiện 56 trường hợp với số tiền xử phạt là 125.460.000 đồng; kiểm tra 801 hộ nông dân sử dụng thuốc BVTV, trong đó có 125 hộ vi phạm về lĩnh vực này. Nhất Ngôn. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi phải tái cơ cấu tổng thể ngành trồng trọt. Tuy nhiên, khi triển khai xây dựng đề án các địa phương gặp nhiều vướng mắc như: Nhận thức của nông dân còn tư duy kiểu cũ, nguồn vốn đầu tư nhà nước có hạn, đầu ra sản phẩm bấp bênh… Đây là những nội dung được thảo luận kỹ tại hội nghị triển khai đề án tái cơ cấu ngành trồng trọt do Bộ NN&PTNT tổ chức ngày 23-9. Trồng su hào trái vụ tại xã Thanh Cao huyện Thanh Oai cho hiệu quả cao. Ảnh: Duy Kiên Khó nhân rộng mô hình sản xuất nông phẩm hàng hóa Ông Ngô Xuân Quảng, Cục trưởng Cục Trồng trọt Bộ NN&PTNT cho biết, trong trồng trọt có 9 lĩnh vực ưu tiên bao gồm: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng; nghiên cứu giống; áp dụng rộng rãi công nghệ tưới tiên tiến; cơ giới hóa, giảm tổn thất sau thu hoạch; đẩy mạnh chế biến, bảo quản; xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp với thị trường xuất khẩu; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị; đổi mới thể chế chính sách; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về trồng trọt. Trong đó, tập trung vào tái cơ cấu một số sản phẩm chủ lực như lúa gạo thông qua việc liên kết xây dựng cánh đồng mẫu lớn. Hiện nay, 13 tỉnh Nam bộ đã xây dựng 369 mô hình cánh đồng mẫu lớn với diện tích 120.500ha, các tỉnh Đồng bằng sông Hồng đã xây dựng được 1.256 mô hình với diện tích 35.518ha. Năm 2014, cả nước tiếp tục mở rộng hàng trăm nghìn hécta. Về chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa, năm 2013, toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã chuyển đổi được 87.310ha gieo trồng, các tỉnh phía Bắc có hàng chục nghìn hécta đất lúa được chuyển đổi sang trồng màu, cây ăn quả mang lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2014, các địa phương tiếp tục thực hiện chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác hoặc chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Đối với cây cà phê đã phê duyệt được 13 nghìn hécta… Tuy nhiên, trong khi triển khai đề án tái cơ cấu, ngành trồng trọt còn nhiều khó khăn như: Nhiều địa phương, đơn vị, doanh nghiệp chưa xây dựng đề án, kế hoạch tái cơ cấu đối với từng sản phẩm chủ lực. Tổ chức triển khai trong thực tế còn chậm, chưa quyết liệt nên chưa có kết quả trong thực tiễn sản xuất. Nguyên nhân là do nhận thức về sự cần thiết phải tái cơ cấu nông nghiệp nói chung và lĩnh vực trồng trọt nói riêng chưa có sự thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Một số đơn vị chưa nắm vững mục đích, định hướng, nội dung, giải pháp của tái cơ cấu nên còn lúng túng trong việc xây dựng đề án, kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện. Tư duy sản xuất của người dân còn lạc hậu và thiên về số lượng, tài nguyên đất nước bị lãng phí, lạm dụng hóa chất. Việc sản xuất còn nhỏ le, thiếu liên kết, thiếu hội nhập quốc tế, ít quan tâm đến tính bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước có hạn, đầu tư của doanh nghiệp hạn chế không đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu, nhất là nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như giao thông, thủy lợi nội đồng. Thực tế, thị trường tiêu thụ đang là trở ngại lớn nhất cho việc chuyển đổi, mở rộng quy mô sản xuất. Tuy đã xây dựng mô hình sản xuất thành công nhưng khó nhân rộng ra sản xuất lớn. Khoa học công nghệ chưa có nhiều đột phá, việc đưa giống mới, tiến bộ kỹ thuật mới chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản. Quản lý nhà nước về chất lượng giống, phân bón, thuốc BVTV còn hạn chế, yếu kém. Chính sách hỗ trợ tái cơ cấu chưa hoàn thiện, nhiều địa phương thiếu kinh phí thực hiện. Lựa chọn các sản phẩm có lợi thế Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Ngô Đại Ngọc cho rằng: Hiện nay, Hà Nội chú trọng vào một số cây trồng chủ lực như: Lúa, cây ăn quả, chè, rau… Khi triển khai đề án tái cơ cấu cần tập trung phối hợp giữa tất cả các khâu, từ giống, thủy lợi, phân bón, thuốc BVTV, quản lý dịch bệnh, đến khâu thu hoạch, bảo quản, đặc biệt là khoa học kỹ thuật. Để đạt được mục tiêu của đề án với giá trị đạt 120 triệu đồng/ha, diện tích liên kết, sản xuất, tiêu thụ, xây dựng cánh đồng lớn phải chiếm 50%; tỷ lệ giống thuốc bảo vệ thực vật xác nhận phải chiếm 75%. Sản xuất phải áp dụng quy trình VietGap, 3 giảm 3 tăng… nhằm đạt năng suất, chất lượng, an toàn thực phẩm, giảm chi phí, hạ giá thành, giảm phát thải khí nhà kính, giảm ô nhiễm môi trường; sử dụng giống kháng bệnh... Nhà nước cần có những chính sách về vốn để hỗ trợ cho các địa phương triển khai xây dựng các mô hình sản xuất hàng hóa chất lượng cao ở một vùng cụ thể sau đó nhân rộng. Ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao vào trồng trọt để mang lại giá trị kinh tế cao. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho rằng: Cái đích cuối cùng của đề án tái cơ cấu ngành trồng trọt chính là nông dân phải được hưởng lợi. Việt Nam hiện vẫn là nước sử dụng nước, phân bón, thuốc BVTV lãng phí hàng đầu trên thế giới. Do đó, trong thời gian tới để việc tái cơ cấu ngành đạt kết quả cao, các đơn vị của ngành cần phối hợp với các tỉnh, thành phố đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp và nông dân về tái cơ cấu nhằm tạo sự chuyển biến. Các địa phương, doanh nghiệp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các đề án tái cơ cấu các sản phẩm trồng trọt chủ lực nhằm mục tiêu nâng cao thu nhập cho nông dân. Trong đó, lựa chọn sản phẩm có lợi thế, tìm kiếm thị trường, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng cạnh tranh cao để khi áp dụng vào thực tế sẽ mang lại hiệu quả. .


Xem tiếp  Các bài mới:     Thị trường ngày 24/9 24/09     Thiếu vốn, chợ xây được phần móng rồi bỏ hoang 24/09     71 doanh nghiệp được trao giải thưởng Chất lượng quốc gia 24/09     Sắp có quy định về giá sàn dịch vụ truyền hình trả tiền 24/09     VietinBank ưu đãi cho vay du học, lãi suất chỉ từ 7,99%/năm 24/09     Những công ty để mất rừng nổi tiếng” ở Tây Nguyên 24/09     Chìa khóa” của các nhà bán lẻ nội địa khi cạnh tranh với doanh nghiệp FDI 24/09 Các bài đã đăng:     Đội vốn”, đông người phục vụ, đường sắt đô thị thu vé giá bao nhiêu? 22/09     Thêm một trung tâm mua sắm, giải trí hiện đại và tiện ích 22/09     Bài học vỡ lòng cho việc đi kiện ngược” 22/09     Cấm xe giường nằm cần có lộ trình 22/09     3.852 hộp sữa trong lô hàng phế liệu 22/09     Việt Nam phấn đấu xuất khẩu nông nghiệp đạt hơn 30 tỷ USD 21/09     Xuất khẩu tiêu sắp cán mốc 1 tỷ USD 21/09 adsbygoogle = window.adsbygoogle || [].push; var _ad360_id=5648; var _ad360_w=728; var _ad360_h=90; var _ad360_pos=0; . Nín thở chờ biểu thuế ôtô. Tuy nhiên, nếu không cẩn trọng, thay vì diệt trừ sâu bệnh, sức khỏe của nông dân và người tiêu dùng có thể bị đe dọa trước. Nông dân chủ quan Tôi mua thuốc trừ sâu phun cho cây trồng thì chỉ hỏi người bán là thuốc nào phun là phù hợp, hoặc là truyền tai nhau thôi chứ ít khi đọc hoặc tìm hiểu kỹ xem phun làm sao để đảm bảo an toàn”- chị Lê Thị Minh Thanh Oai, Hà Nội cho hay. Chị Minh có thời gian dài chuyên nhận phun thuốc trừ sâu thuê. Nghe mọi người nói thuốc trừ sâu độc hại, phun nhiều cũng có ảnh hưởng tới sức khỏe, nhưng vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó, đông con nên tôi chấp nhận” - chị Minh tâm sự. Nhiều nông dân vẫn chưa ý thức được cách sử dụng thuốc BVTV an toàn.Ngày cao điểm, chị Minh nhận phun thuốc thuê cho cả chục hộ, nhưng không bao giờ chị sử dụng áo bảo hộ, khẩu trang, thậm chí không cần cả găng tay khi pha thuốc. Cũng bởi lẽ đó mà nhiều hôm, sau khi phun thuốc trừ sâu cơ thể chị mệt bải hoải, không muốn ăn uống. Mới đây nhất khi cơ thể có hiện tượng mệt mỏi, sốt, mắt mờ, đau vùng cổ... Chị đi khám thì được bác sĩ chẩn đoán chị bị nhiễm độc mãn tính do tiếp xúc quá lâu với thuốc trừ sâu.Bà Nguyễn Thúy Nghiêm xã Cao Viên, Thanh Oai - chủ đại lý cung cấp con giống, thuốc BVTV thừa nhận: Đúng là lâu nay chúng tôi chỉ bán thuốc trừ sâu và hướng dẫn quy trình pha chế cũng như hiệu quả của thuốc chứ ít để ý tới việc người phun thuốc sử dụng thế nào cho an toàn. Đa phần bà con làm theo kinh nghiệm hoặc truyền tai nhau...”.Sử dụng sai quy trình Ông Nguyễn Xuân Hồng - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Bộ NNPTNT cho biết: Hiện nay 100% số cơ sở khuyến nông ở các địa phương đã có chương trình tập huấn kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV an toàn. Ngoài ra, thông qua hệ thống IPM để tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về việc sử dụng thuốc BVTV”. Ông Nguyễn Xuân Hồng hướng dẫn quy trình sử dụng thuốc BVTV an toàn: -Mua thuốc có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, trong danh mục cho phép sử dụng. -Thực hiện 4 đúng”: Mua đúng thuốc, dùng đúng lúc, pha chế đúng nồng độ, liều lượng; sử dụng đúng cách.- Khi phun thuốc cần trang bị đầy đủ bảo hộ lao động. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu mới đây của Cục Bảo vệ thực vật cho thấy có tới 25% nông dân vi phạm quy trình sử dụng thuốc BVTV. Phổ biến nhất là sử dụng thuốc quá nồng độ cho phép, phun không đúng cách. Có đến 80% trong số những người vi phạm sử dụng thuốc BVTV không đúng cách, hoặc là phun thuốc ra ngoài đất, không khí hoặc phun không đúng vị trí ẩn trú của sâu bệnh. Tiếp theo đó là không sử dụng đúng thuốc bảo vệ thực vật thời gian, khoảng cách cho phép, thay vì để từ 7- 10 ngày sau khi phun thuốc BVTV mới được tiêu thụ thì người dân lại gặt chỉ sau 2-3 ngày...” - ông Hồng nói.Theo ông Hồng, sử dụng thuốc BVTV không theo hướng dẫn, không đảm bảo an toàn có thể dẫn tới các trường hợp nhiễm độc mạn tính, thậm chí là nhiễm độc cấp tính gây ngộ độc, sốc, có nguy cơ tử vong. Khi sử dụng cần phải tuân thủ các điều kiện an toàn cách thức sử dụng, liều lượng sử dụng phù hợp. Khi dùng thuốc BVTV không hết cần bảo quản ở nơi khô thoáng, bao bọc cẩn thận. Lưu ý không để trong gian bếp, nơi có nhiều người qua lại dễ va đập đổ vỡ, tránh xa tầm tay phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ” - ông Hồng lưu ý. Minh Nguyệt. Đề nghị truy tố một giám đốc DN cùng hai thuộc cấp .. . Đó là nhận định chung của nhiều chuyên gia tại hội thảo Thuốc BVTV bất hợp pháp” do EuroCham Phòng Thương mại châu Âu tại VN và CropLife tổ chức ngày 12-9 tại TP.HCM. Theo bà Phùng Mai Vân - phó chánh thanh tra Cục BVTV, có đến 12-14% số lượng các cơ sở sản xuất, gia công và cơ sở kinh doanh, buôn bán thuốc BVTV vi phạm các quy định quản lý của Nhà nước. Trong đó, các trường hợp vi phạm về quản lý hành nghề chiếm 60-65%, còn lại từ 35-40% vi phạm do buôn bán thuốc BVTV bất hợp pháp gồm kinh doanh thuốc cấm, thuốc giả, thuốc ngoài danh mục, không rõ nguồn gốc.... Đặc biệt trong năm 2010 và sáu tháng đầu năm 2011 số lượng buôn bán thuốc BVTV giả có chiều hướng tăng. Theo ông D’Arcy Quinn - chuyên gia lĩnh vực chống hàng giả từ Tổ chức CropLife International, thuốc BVTV bất hợp pháp gây ra những hệ quả khôn lường. Quần áo giả có thể không gây chết ai nhưng thuốc BVTV giả làm giảm năng suất, phá hủy môi trường và hủy hoại sức khỏe của người sử dụng. Hơn thế nữa, thuốc BVTV bất hợp pháp còn gây ra nguy cơ đối với sức khỏe cho người tiêu dùng” - ông Quinn nói. TRẦN MẠNH. Sử dụng thuốc BVTV không đúng phương pháp và liều lượng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người Sử dụng đúng, thuốc BVTV giúp đẩy lùi dịch hại, giữ năng suất cây trồng cao và ổn định. Nhưng trong quá trình lưu thông và sử dụng thuốc BVTV, nếu sử dụng không đúng và thiếu biện pháp phòng ngừa, thuốc sẽ gây những tác hại không nhỏ cho môi sinh và môi trường. Một thực tế đang tồn tại gây khó khăn cho việc quản lý thuốc BVTV ở nước ta là có quá nhiều tên thương mại của các loại thuốc trong khi nhiều loại không còn được sử dụng. Theo ông Trương Quốc Tùng, Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam hiện nay, trong danh mục của chúng ta có hơn 1.200 hoạt chất để chế tạo thuốc BVTV trong khi các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia chỉ có từ 400 - 600 hoạt chất. Trong đó, có những hoạt chất có hàng trăm tên thương mại, giống như "ma trận” đánh lừa người dân. Chẳng hạn, hoạt chất Abamectin có tới 188 tên thương mại. Cùng với đó, trong cơ cấu thuốc BVTV, các loại thuốc có độ an toàn còn chiếm tỷ lệ thấp. Cụ thể, thuốc BVTV sinh học chỉ chiếm dưới 20%, loại thuốc có thời gian cách li dưới 7 ngày cũng chỉ chiếm khoảng 13. Trong những thập niên cuối của Thế kỷ 20 và những năm đầu của Thế kỷ 21, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trí tuệ con người làm cho nền sản xuất tăng nhanh, nhưng môi trường đất, nước và không khí bị ô nhiễm nặng. Ở Việt Nam vào những năm cuối của thập kỷ 80, số lượng số lượng thuốc BVTV sử dụng là 10.000 tấn/ năm, nhưng bước sang những năm của thập kỷ 90, số lượng thuốc BVTV đã tăng lên gấp đôi 21.400tấn/năm vào năm 1992, thậm trí tăng gấp ba 30.000 tấn/năm vào năm 1995 và diện tích đất canh tác có sử dụng thuốc BVTV đã tăng lên 80-90%. Trong số đó, thuốc trừ sâu chiếm tỷ lệ 68,33-82,20% trong tổng số lượng thuốc BVTV đã sử dụng. Thuốc trừ sâu cỏ chiếm tỷ lệ 3,30 - 11,90%. Các nhóm thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và các thuốc khác hiện được sử dụng với số lượng ngày càng tăng. Hiện nay đã có nhiều những tiến bộ trong công tác quản lý cung ứng, sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt là từ khi Luật Bảo vệ môi trường thực thi vào tháng 4-1994. Các nhà sản xuất hóa chất BVTV đã đưa ra thị trường các sản phẩm đa dạng về chủng loại mẫu mã và được bao gói pha chế sẵn rất thuận lợi cho người sử dụng. Theo đó, hiện có 900 loại hóa chất BVTV thương mại và hơn 300 hoạt chất BVTV phân theo hoạt tính lưu hành trên thị trường Việt Nam với mạng lưới cung ứng đa dạng. Mặt khác, hiểu biết của người dân về sử dụng thuốc BVTV cũng tăng lên đáng kể. Từ đó đặt ra trách nhiệm của các nhà quản lý, sản xuất và cung ứng. Tuy nhiên, ở một số vùng sâu, vùng xa người dân vẫn chưa hiểu biết hết về sự nguy hiểm của thuốc BVTV, vẫn sử dụng thuốc và phân bón hóa học, các hoạt chất quá mức cần thiết và không đúng quy cách nên đất canh tác ngày càng xấu đi, dư lượng các phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, diệt cỏ ngấm xuống tầng nước ngầm làm ô nhiễm các nguồn nước. Những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu, các dự án với dây chuyền công nghệ thiết bị hiện đại được triển khai để xử lý chúng và đã góp phần không nhỏ trong công tác bảo vệ môi trường, tuy nhiên do tính chất phức tạp của việc quản lý, xử lý các loại hóa chất này đã và đang trở thành thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trước những tác hại tiềm tàng của các loại thuốc BVTV với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đồng thời để đáp ứng những yêu cầu về bảo vệ thuoc bao ve thuc vat môi trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 184/2006/QĐ-TTg ngày 10 - 8- 2006 phê duyệt Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Có thể nói, chúng ta đã có một hệ thống các quy định về quản lý thuốc BVTV. Tuy nhiên, trước thực tế đáng báo động do tác hại của thuốc BVTV gây ra, đã đến lúc cần xây dựng các quy định đồng bộ về quản lý tác hại của thuốc BVTV tới môi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi. Nguyễn Sáng - Thanh Tùng. Ảnh minh họa nguồn InternetMức dư lượng phát hiện vượt từ 1,5 - 5 lần so với mức tối đa cho phép theo quy định. Những trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì kể cả lần đầu cũng truy xuất nguồn gốc, thu hồi lại. Nếu lần thứ 2 vi phạm sẽ bị giữ lại ngay biên giới, kiểm tra đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm thì mới cho thông quan. Nếu như lần thứ 2 vi phạm nặng thì ngoài việc tái xuất, cơ quan chức năng sẽ nâng tần suất kiểm tra lên 100%. Nếu lần thứ 3 vi phạm thì lô hàng không chỉ bị tái xuất mà còn bị cấm nhập khẩu. Nguyễn Tú .

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét